TextBody

Quý khách đã đặt lịch khám thành công

Họ tên :

Số điện thoại :

Ngày hẹn:

Cảnh báo khi tự ý điều trị bỏng tại các cơ sở y tế không được phép

17/09/2014

VBQG: Với những trường hợp bỏng sâu, một số cơ sở tư nhân không chẩn đoán được độ sâu nên giữ lại điều trị. Hậu quả là vết bỏng không khỏi, sau đó lại phải vào bệnh viện để điều trị, vừa tốn kém, vừa lâu, để lại di chứng nặng nề, có khi còn nguy hiểm đến tính mạng.

15 giờ, ngày 15/9/2014, Viện Bỏng Quốc gia cấp cứu một bệnh nhân bị bỏng lửa xăng 14% DTCT (trong đó 8% bỏng sâu, hoại tử ướt), vùng mặt, thân, chi; quê quán: Kim Đảng, Vĩnh Phúc, số BA 9065. Qua khai thác bệnh sử được biết, ngày 9/9/2014, bệnh nhân dùng xăng đốt tổ ong, lửa bùng cháy gây bỏng. Sau đó, bệnh nhân được cấp cứu và được điều trị tại một cơ sở y tế tư nhân vùng Vĩnh Yên. Do không phân biệt bỏng nông và sâu, bệnh nhân vẫn được giữ lại điều trị tại cơ sở này tới ngày 15/9/2014 (sau 6 ngày bỏng). Gia đình phải kiên quyết chuyển tới Viện Bỏng Quốc gia (không phải cơ sở điều trị chủ động chuyển). Tình trạng bệnh nhân khi chuyển tới tới Viện Bỏng: nhiễm khuẩn nhiễm độc nặng. Tại chỗ tổn thương 14% diện tích cơ thể trong đó 8% bỏng sâu, hoại tử ướt độ III, IV, V ở vùng mặt, thân, chi. Vết thương viêm nề mạnh (nguy cơ nhiễm khuẩn toàn thân), mùi hôi thối, tiết nhiều dịch mủ (ảnh chụp bệnh nhân sau khi tắm điều trị), nguy cơ gây hoại tử thứ phát.

 

Hình ảnh tổn thương bỏng

Bệnh nhân này cần được chuyển tới cơ sở y tế chuyên khoa (sau khi sơ cấp cứu) càng sớm càng tốt vì 4 lý do sau:

1/ Trước tiên phải khẳng định rằng bỏng sâu ở bệnh nhân này không thể điều trị nội khoa mà khỏi được. Bệnh nhân nhất thiết phải trải qua phẫu thuật để loại bỏ mô hoại tử, ghép da khi điều kiện cho phép. Đây là sai lầm hay gặp nhất với bệnh nhân tự điều trị và với các cơ sở y tế tư nhân không có kiến thức chuyên ngành bỏng. Các trường hợp bỏng sâu đều cần được điều trị ở cơ sở chuyên khoa.

2/ Bỏng sâu ở mặt, cổ, gáy, ngực do lửa cháy đều có khả năng đe dọa tính mạng do nguy  cơ gây bỏng đường thở, chèn ép đường thở, dẫn tới suy thở, ngừng thở, viêm nhiễm đường hô hấp.. gây tử vong. Khi bệnh nhân có nguy cơ bỏng hô hấp cần nhanh chóng chuyển tới cơ sở y tế có đủ phương tiện hồi sức cấp cứu.

3/ Bỏng với diện tích và độ sâu ở bệnh nhân này có nguy cơ khác như sốc bỏng, mất nước  điện giải, nguy cơ nhiễm khuẩn, suy giảm sức đề kháng… đều có thể dẫn tới biến chứng đe dọa tính mạng.

4/ Bỏng ở vị trí đầu, mặt, cổ ngực, bàn tay (cho dù chưa tính tới ảnh hưởng thẩm mỹ) có nguy cơ ảnh hưởng tới chức năng trầm trọng nếu không điều trị đúng cách. Bệnh nhân có thể để lại sẹo biến dạng những vị trí này, co kéo làm mất chức năng (không mím miệng được, không ngửa hoặc gấp cổ, biến dạng cột sống, co kéo bàn ngón tay…).

Vậy trường hợp này thì nên xử trí như thế nào?

1/ Khi tới cơ sở y tế (tư nhân hay công lập), cần nhanh chóng kiểm tra và tiến hành cấp cứu toàn thân đe dọa tính mạng (truyền dịch, giảm đau, thở oxy, điều trị suy hô hấp, ngừng thở, ngừng tim, ngộ độc khí cháy, ngộ độc CO, CO2...)

2/ tại chỗ: ngâm rửa vết bỏng, tiến hành chẩn đoán diện tích và độ sâu. Kiểm tra tình trạng chèn ép đường thở do bỏng sâu vùng mặt cổ ngực..Thay băng kỳ đầu theo quy định

3/ các biện pháp điều trị khác như ủ ấm, bù nước  điện gải đường uống, dinh dưỡng…

4/ Cần nhanh chóng chuyển tới cơ sở y tế có đủ phương tiện hồi sức cấp cứu để tiến hành biện pháp tổng thể chống sốc, chống nhiễm  trùng…, đưa bệnh nhân qua giai đoạn nguy kịch. Sau đó, nhanh chóng chuyển bệnh nhân tuyến trung ương để điều trị tiếp, can thiệp chuyên sâu khác…

Qua trường hợp trên chúng tôi đưa ra một số cảnh báo sau:

- Mọi ngư­ời dân khi bị bỏng cần thực hiện đúng các biện pháp sơ cấp cứu tại chỗ và chuyển đến các cơ sở y tế tin cậy để đ­ược điều trị đúng phương pháp; không tự điều trị hoặc điều trị tại các cơ sở y tế không được phép.

- Khi có dấu hiệu nặng, không xử trí được, các cơ sở y tế cần nhanh chóng chuyển lên tuyến trên. 

Nguyễn Ngọc Tuấn, Phạm Quang vinh, Ban biên tập