TextBody

Quý khách đã đặt lịch khám thành công

Họ tên :

Số điện thoại :

Ngày hẹn:

Cảnh báo: tự điều trị bỏng cho trẻ tại nhà - nguy hiểm khôn lường

20/05/2015

VBQG: Một trong những sai sót thường gặp là không đưa bệnh nhân đến điều trị tại các cơ sở y tế để được cấp cứu và điều trị kịp thời, tự điều trị tại nhà hoặc sử dụng không đúng chỉ định các thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng, … điều này có thể để lại nhiều hậu quả đáng tiếc.

Thông báo một trường hợp điển hình:

Bệnh nhân Trần Nguyễn Hải Đ, 02 tuổi, nam, số B.A: 0679; quê quán: xã Cát Thành, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.

Ngày 13/01/2016, cháu bị bỏng nước sôi vùng thân và chi, sau bỏng được gia đình tự điều trị tại nhà bằng thuốc uống và thuốc bôi không rõ nguồn gốc. Đến ngày 20/01/2016 (sau 8 ngày tự điều trị), cháu sốt cao, mệt nhiều, thở ậm ạch, vùng bỏng thấm dịch nhiều, gia đình mới đưa cháu đến cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định, nhưng do tình trạng bệnh nhân quá nặng, diễn biến xấu dần, nên ngày 23/01/2016, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định đã chuyển bệnh nhân lên Viện Bỏng Quốc gia.

Tình trạng của bệnh nhân khi nhập viện: vật vã, kích thích, da toàn thân nổi các vân tím, nhiệt độ 38,5oC, môi tím, thở nhanh nông, tần số thở 38 – 40 lần/phút, SpO2 giảm, mạch 190 lần/phút, huyết áp 50/23 mmHg, bụng chướng căng, vô niệu. Tại chỗ tổn thương bỏng 10% diện tích cơ thể, chuyển hoại tử thứ phát toàn bộ, tiết dịch nhiều, màu xanh, mùi hôi. Bệnh nhân được chuyển vào Khoa Điều trị tích cực, với chẩn đoán: Bỏng nước sôi 10% (10%) độ IV, V bụng, ngực, tay trái, chân trái - Sốc nhiễm khuẩn - Suy đa tạng. Bệnh nhân diễn biễn xấu, tiên lượng rất nặng; mặc dù đã được điều trị tích cực: thở máy, thuốc vận mạch, trợ tim, truyền dịch, kháng sinh mạnh, truyền khối hồng cầu, albumin, thay băng cắt lọc vết thương bỏng, nhưng tình trạng sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng ngày càng nặng hơn: hôn mê sâu (Glasgow 3 điểm), hạ thân nhiệt 36oC, chi lạnh môi tím, da lành nổi các vân đá, mạch rất nhanh (237 lần/phút), huyết áp tụt (39/27 mmHg, đã dùng 3 thuốc vận mạch liều cao), bụng chướng căng, vô niệu. Đến 06 giờ 30 phút ngày 24/01/2016 gia đình xin đưa bệnh nhân về tử vong.

Đây là một trường hợp tử vong đáng tiếc vì diện bỏng không quá rộng. Qua đây, chúng tôi xin đưa ra một số ý kiến rút kinh nghiệm như sau:

1. Sự cần thiết phải đưa trẻ bị bỏng đưa đến các cơ sở y tế để điều trị: Trẻ em chiếm khoảng 50% tổng số nạn nhân bỏng, trong đó lứa tuổi 1-5 tuổi chiếm khoảng 50 – 60% số trẻ em bị bỏng. Đây là lứa tuổi trẻ rất hiếu động, thích khám phá tìm hiểu xung quanh nhưng lại chưa ý thức và chưa có khả năng phòng tránh các mối nguy hiểm. Trẻ em là một cơ thể đang lớn (tăng về kích thước, trọng lượng, số lượng) và đang trưởng thành (hoàn thiện chức năng, thay đổi về chất lượng). Đây là hai quá trình sinh học cơ bản của trẻ em. Trẻ em khi bị bỏng dù diện tích nhỏ cũng có thể gây rối loạn toàn thân, diễn biến bệnh bỏng thường phức tạp hơn, quá trình điều trị cũng gặp khó khăn hơn người lớn do các cơ quan chưa hoàn thiện. Ở trẻ nhỏ, diện bỏng từ 10% DTCT là bỏng nặng, cần nhanh chóng đưa đến các cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu và điều trị đúng cách.

2. Vấn đề sử dụng thuốc điều trị: Da là hàng rào bo v th chng li các tác nhân có hi ca môi trưng xung quanh tác đng tới th, vì vy, khi b tn thương, khnăng bảo v ca da kng còn, làm thoát dịch, huyết tương, điện giải qua da, các mô tế bào hoi t tạo môi trưng dinh dưng thun li cho vi sinh vt xâm nhp và phát trin; Điều trị bỏng phải kết hợp điều trị toàn thân và tại chỗ, trong đó điều trị tại chỗ vết bỏng là rất quan trọng vì tổn thương bỏng là nguồn gốc gây ra mọi rối loạn bệnh lý trong bỏng. Ngay từ xa xưa, ông cha ta đã sử dụng nhiều loại thuốc có nguồn gốc từ cây cỏ, động vật để điều trị vết thương, vết bỏng, cho kết quả tốt. Tại Việt Nam, danh y Tuệ Tĩnh đã dùng mật ong để điều trị bỏng; Hải Thượng Lãn Ông dùng dương quy, dầu vừng đúc thành cao dán lên vết bỏng đã nhiễm khuẩn, cho kết quả tốt. Ngày nay, kế thừa vốn y học cổ truyền và kết hợp các kỹ thuật bào chế hiện đại, người ta đã sản xuất ra nhiều thuốc nguồn gốc thảo mộc có tác dụng tốt trên vết bỏng như madhuxin, selaphin, B76,… tuy nhiên, để có tác dụng tốt thì thuốc phải được dùng đúng chỉ định. Trên thực tế, bản thân nhiều chất được người nhà bệnh nhân bôi lên vết bỏng như nhựa chuối, nước mắm, thuốc tạo màng không đúng chỉ định, … làm tăng ô nhiễm tại vết bỏng, làm tăng mức độ bệnh, nhiều trường hợp để lại hậu quả đánh tiếc về tính mạng, về chức năng và thẩm mỹ.

Bệnh nhân Đ. được tự điều trị tại nhà, sử dụng các thuốc điều trị đều không rõ nguồn gốc, không rõ tác dụng, cách dùng, … Mặt khác, vấn đề điều trị toàn thân không được quan tâm đúng mức do thiếu hiểu biết, hậu quả gây ra hàng loạt các rối loạn chức năng của các cơ quan cơ thể, nhiễm khuẩn toàn thân và tại chỗ (hoại tử thứ phát vết bỏng), sốc nhiễm khuẩn, dẫn đến suy đa tạng và tử vong.

Một số khuyến cáo  cho các gia đình:

- Bỏng là tai nạn có thể phòng tránh, phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh” hoàn toàn đúng với và có ý nghĩa với bỏng. Chính vì vậy cần trang bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản về dự phòng bỏng, đừng để bị bỏng vì thiếu hiểu biết.

- Hầu hết các nguyên nhân dẫn đến trẻ em bị bỏng là do sự bất cẩn của người lớn, trẻ không có lỗi.

 

- Khi bị bỏng cần biết sơ cứu bỏng đúng cách (ngâm vùng bị bỏng vào nước mát (16 - 200C), sạch hoặc dội nước hoặc hứng vùng bị bỏng dưới vòi nước mát, sạch càng sớm, càng tốt trong khoảng thời gian 20 phút). Sau đó đưa đi khám tại các cơ sở y tế, không nên tự điều trị hoặc đến các thày lang để chữa bỏng. Đừng để tiền mất tật mang vì sự thiếu hiểu biết của mình.

Chu Anh Tuấn, Lê Quốc Chiểu, Viện Bỏng