Quý khách đã đặt lịch khám thành công
Họ tên :
Số điện thoại :
Ngày hẹn:
VBQG: Sốc bỏng là trạng thái suy sụp toàn bộ chức năng quan trọng của cơ thể do chấn thương bỏng gây nên. Bỏng càng rộng, độ sâu càng lớn, tỷ lệ sốc càng cao và sốc càng nặng. Đặc biệt, đối với bệnh nhân bỏng nhi, diện tích bỏng chung trên 10% diện tích cơ thể đã phải điều trị dự phòng sốc bỏng, sốc bỏng nặng vẫn là những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em.
Khoảng 17h ngày 12/9/2017, bệnh nhân tập đi bằng xe vịn, bị ấm nước sôi trên bàn đổ vào người gây bỏng, sau bỏng được cấp cứu tại Bệnh viện Sản nhi Nghệ An, được truyền dịch (khoảng 400 ml Ringerlactat, 300 ml huyết tương, 100 ml Albumin 20%) giảm đau, thở oxy, băng bó vết thương, chuyển đến Viện Bỏng Quốc gia lúc 23h 30 phút cùng ngày (Giờ thứ 5 sau bỏng) trong tình trạng sốc nhược nặng: ý thức lơ mơ, da niêm mạc nhợt nhạt, chi lạnh, thở khò khè tần số 32 lần/ 1 phút, thân nhiệt 36o8, mạch nhanh 155 lần/ 1 phút, huyết áp 80/40 mmHg, SPO2 98%,chưa đi tiểu từ khi bị bỏng.
Tại chỗ: Tổn thương bỏng 64% diện tích cơ thể (DTCT), trong đó có 4% diện tích bỏng sâu ở mặt, thân trước, tứ chi sinh dục.
Các xét nghiệm khi vào viện: Hồng cầu 3, 86 T/l; huyết sắc tố 89g/l; Hematocit 0, 281 l/l, albumin 39g/l; khí máu nhiễm toan chuyển hóa (pH : 7.24, HCO3- 22,3 mmol; BE – 5,1 mmol/l); lactate: 1,1 mmol/l. Các chỉ số khác trong giới hạn.
Bệnh nhân được hồi sức tích cực theo phác đồ chống sốc: ủ ấm, thở oxy hỗ trợ, truyền dịch ringerlactat theo công thức Parkland ở trẻ em, tổng lượng dịch trong 24 giờ đầu là 4ml/kg/% diện tích bỏng, truyền huyết tương (12h sau bỏng), giảm đau, trợ tim mạch. Kháng sinh toàn thân, dự phòng loét đường tiêu hóa, nuôi dưỡng tích cực (nuôi dưỡng sớm đường tiêu hóa).
Ngày thứ 2: bệnh nhi còn trong tình trạng nặng, toàn thân phù nề, thân nhiệt 3705, mạch 140 – 150 / phút, huyết áp 80/40 mmHg, SPO2 99%, bài niệu được 2ml/kg/h.
Xét nghiệm máu Albumin 25g/l; kali 2,8 mmol/l.
Các chỉ số khác chưa có bất thường
Bệnh nhi đã được bổ sung truyền 200 ml plasma, bổ sung kali
Duy trì an thần, tại chỗ vết bỏng đắp màng AquacelAg

Hình ảnh bệnh nhân ngày 5/10/2017 (ngày thứ 24 sau bỏng)
Ngày thứ 4: bệnh nhi tỉnh, toàn thân bớt nề, da niêm mạc hơi nhợt
Xét nghiệm huyết sắc tố 68g/l, bạch cầu 5,6 g/l. albumin 28g/l
Bệnh nhi đã được truyền bổ sung 250 ml khối hồng cầu
Ngày thứ 9: bệnh nhân tỉnh, chơi ngoan, bú mẹ được
Nhiệt độ 37oc, mạch 115 lần/ phút, huyết áp 80/ 45 mmHg
Tại chỗ: vết bỏng độ II, biểu mô hóa thuận lợi, có 4% độ IV hoại tử chưa rụng.
Bệnh nhân được phẫu thuật lần 1 cắt hoại tử, ghép da diện tích 3% vùng bụng, hai đùi.
Phẫu thuật lần 2: ghép da 1% sinh dục, hai đùi
Kết quả điều trị: Bệnh nhi tổn thương bỏng khỏi hoàn toàn sau 30 ngày điều trị. Tổng lượng huyết tương đã truyền là 450 ml, khối hồng cầu 450 ml. Bệnh nhi được chuyển Khoa Vật lý trị liệu – Phục hồi chức năng, Viện Bỏng Quốc gia ngày 16/10/2017.
Kiến nghị: Điều trị bệnh nhi bỏng diện rộng luôn là thách thức lớn trong điều trị, tỷ lệ tử vong còn cao, chi phí điều trị tốn kém. Vì vậy phải có kế hoạch điều trị hợp lý, chống sốc tích cực, chiến thuật sử dụng kháng sinh phù hợp với diễn biến lâm sàng và cận lâm sàng. Kết hợp nuôi dưỡng sớm toàn thân, có kế hoạch phẫu thuật cắt hoại tử sớm, ghép da.
Nguyễn Băng Tâm, Nguyễn Thái Ngọc Minh, Viện Bỏng Quốc gia
Tin mới nhất