Quý khách đã đặt lịch khám thành công
Họ tên :
Số điện thoại :
Ngày hẹn:
Phù Đổng Thiên Vương. Đời Vua Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân tràn sang xâm lấn nước ta. Thế nước yếu, vua cho đi loan truyền các nơi cho nhừng người tài giỏi ra cứu nước. Tại làng Phù Đổng huyện Võ Ninh, có một gia đình đến 60 tuổi mới sinh một đứa con. Người con này mãi đến 3 tuổi vẫn còn nằm trên giường không hề biết nói mà cũng không biết đi biết chạy.
Một hôm sứ giả của vua đến địa phương này rao truyền cho người tài ra dẹp giặc. Cậu bé bỗng nhiên mở lời và lớn tiếng nói với mẹ xin gặp sứ giả để xin tùng quân đánh giặc. Bà mẹ vô cùng kinh ngạc và lo lắng tuy nhiên sứ giả cũng đến. Cậu bé dõng dạc yêu cầu sứ giả về xin vua đúc cho cậu một bộ giáp sắt, một mũ sắt, một roi sắt và một con ngựa sắt..khi nào giặc đến hãy mang đến cho cậu.
Thật vậy, khi giặc tràn sang cậu bé vung vai trở thành một người lớn vậm vở mặc giáp sắt, đội mũ sắt, cầm roi sắt, nhảy lên ngựa sắt phi ngựa đi đánh giặc. Ngựa phun ra lửa, cậu bé tung hoành giết giặc đến nổi roi sắt gảy, cậu bèn nhổ bụi tre tiếp tục chiến dấu. Trước sự dũng mảnh, giặc xin đầu hàng. Sau khi đánh tan giặc, cậu bé phi ngựa đến làng Ninh Sóc dưới chân núi Sóc Sơn, cùng ngựa bay lên Trời. Nơi đây vẫn còn dấu vết lửa của ngựa sắt đốt cháy cả một vùng nên đến bây giờ còn gọi nơi đây là làng Cháy. Để nhớ công ơn, vua phong là Phù Đổng Thiên Vương đời đời nhang khói. Tượng của Đức Phù Đổng Thiên Vương bao giờ cũng vẫn là trên lưng ngựa sắt phun lửa. Dân gian tôn vinh Ngài là Thánh Gióng.
Lao Thạch Mã. Việt sử còn đề cập đến chuyện con ngựa đá thời nhà Trần. Trong lúc làm lễ ở chùa Lăng sau khi dẹp tan giặc Mông Cổ, nhân lúc thấy các con ngựa đá đứng chầu trước các miếu có dính bùn, vua Trần Nhân Tông liền cảm khái hai câu thơ bằng chữ Hán.
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện Kim âu
Dịch là:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
Nhứt nhân nhứt mã. Một người một ngựa. Hình ảnh một dũng tướng một người một ngựa xung pha trận mạc giữa gươm đao, hào hùng biết bao. Trong một trận chiến chống quan Mông cổ, tướng Lê Phụ Trần một mình một ngựa lao vào trận địa kỵ binh của quân Mông Cổ, sắc mặt vẫn thản nhiên tung hoành như chỗ không người.
Vua Trần Duệ Tông cũng là một danh tướng đã từng trên lưng ngựa chiến đấu kiên cường giữa mũi dáo đường tên và chết tại trận tiền.
Đền Bạch Mã Hà Nội. Đền Bạch Mã ờ Hà Nội là một trong bốn trấn của thành Thăng Long cùng với Đền Quan Thánh, Đền Kim Liên và Đền Voi Phục. Đền Bạch Mã trấn giữ phía Đông Kinh thành, hiện thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ tức là Rún của rồng, vị thần gốc của Hà Nội cổ. Khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long công việc xây đắp thành nhiều lần đổ vở. Vua nằm mộng thấy từ đền Long Đỗ có một conngựa trắng đi ra. Theo vết chân ngựa, vua cho xây lại vàđã thành công nên đặt tên đền nơi đây là đền Bạch Mã.
Đền Bạch Mã xứ Nghệ. Đền Bạch Mã được xây dựng từ đầu thời Lê, để thờ Phan Đà, người đã có công lớn chống quân Minh. Phan Đà quê Chí Linh tư chất thông minh, võ nghệ tài giỏi, đầu quân trong nghĩa binh Lam Sơn
Trong một lần đi thám thính nắm tình hình, ông bị địch phục kích và chém trọng thương ở bến Nguyệt Bổng. Con chiến mã trung thành đã mang ông về căn cứ, ông đã trút hơi thở cuối cùng tại đó. Cũng có truyền thuyết, lúc ngựa mang ông qua vùng Lai Thành (nay thuộc xã Thanh Long) một dòng máu của ông đã chảy xuống và nơi đây mối xây lên thành nấm mồ lớn. Về sau dân làng lập miếu thờ tại địa điểm nầy. Vua sắc phong là “Đô Thiên đại đế Bạch Mã thượng đẳng phúc thần”.
Biểu tượng ngựa:
- Lộc mã muốn chỉ sự giáu sang, phát đạt, tiền tài, gia sản.
- Ngựa phi nước đại tượng trưng cho sự bôn ba rày đây mai đó. Vó ngựa đường xa.
- Bạch mã nếu là bạch mã thì phải được dẫn đi – đồng hành với chủ chớ không được cỡi – là biểu tượng của sự thăng quan tiến chức.
- Đôi ngựa hay song mã. Hình ảnh đôi ngựa hay đôi tuấn mã ắt hẳn đem lại tài lộc.
- Tám ngựa. Hình ảnh tám ngựa bờm dựng lên, đuôi thẳng ...phi nước đại trên đường thiên lý là biểu tượng của sự thành công trong kinh doanh, thăng quan tiến chức trong quan lộ, thành đạt trong thi cử.
- Mã đáo thành công. Cũng hình ảnh tám ngựa như vậy, nếu đặt trên bàn làm việc và hoặc treo trên tường nhà mà phải hướng chạy phải là hướng vào nhà, sẽ đạt được mọi điều cát lợi như làm quan lên chức, buôn bán làm giàu, thi cử đỗ đạt tóm lại vạn sự hanh thông đúng theo ý mã đáo thành công. Có người cho là hướng ngựa chạy ra cổng lớn hoặc cửa cái, hoặc đường lộ ...nếu nói như vậy thì mâu thuẩn với từ “đáo” là về, hơn nữa tài lộc, danh dự thì phải hướng vô chớ cho nó tuồng hết ra ngoài thì thành “mã... đào khánh tận” mất.
- Mã thượng đắc thiên hạ. Ngày xưa lấy chiến trận làm nên nghiệp cả nên quá trình chiến đấu là luôn luôn trên mình ngựa. Do vậy thành ngữ nầy muốn nói chỉ có mỗi một cách đắc thiên hạ là phải cầm thương cỡi ngựa ra mặt trận.
- Mã thượng phong hầu. Hình ảnh một con khỉ ngồi trên lưng hay trên bờm con ngựa để bắt chí – mấy ông ba tàu dám ghép chữ và ghép ý một cách trời ơi để trở thành “Mã thượng phong hầu” tức là mong ước cho việc thăng quan tiến chức nhanh chóng. Số là chữ “hầu” nghĩa là khỉ, đồng âm với chữ “hầu” trong chức phẩm “hầu” làm quan. Hình ảnh con khỉ ngồi trên ngựa, “mã thượng - vậy mà do óc sáng chế của người Tàu biến thành cụm từ mỹ miều “Mã thượng phong hầu” rồi vẽ thành hình lếu láo bán cho các “công bộc của dân” rất chạy.
- Ngựa quen đường cũ. Ngựa không thua vì chó về trí nhớ những con đường mà nó đã đi qua dù ngàn dậm để có thể trở về nhà. Một chủ tướng tử thương trong chiến trận, ngựa tự động mang xác chủ về nhà..
- Trung thành và chung thuỷ. Ba tấm gương: 1.- Không thờ hai chủ: Ngựa Đích Lư của Lưu Bị. 2.- Chỉ thờ người chủ tướng anh hùng: Ngựa Xích thố của Quan Vân Trường. 3.- Tình chiến hữu, đồng sanh đồng tử: Ngựa Buchephalus và Alexandre Đại đế.
- Da ngựa bọc thây. Không biết bao nhiêu chuyện từ Á sang Âu kể về những con chiến mã đã từng mang thi hài của người chiến sĩ kỵ mã tử trận về doanh trại. Trong những phim chiến đấu của Mỹ cũng đã có chiếu những cảnh như vậy.
- Kỵ binh. Ngày xưa trong chiến tranh kỵ binh là lực lượng quan trọng nhất. Ngày nay sức ngựa không bì với sức cơ giới tuy nhiên trong quân đội hiện đại các nước Tây phương vẫn còn dùng từ kỵ binh, cavalerie để chỉ đội quân thiết giáp.
Đặc điểm của loài ngựa
So với các động vật loài ngựa có quá nhiều đặc điểm:
- Hệ thống bộ tiêu hoá của ngựa ở giữa của loài nhai lại và không nhai lại. Chất enzyme trong ruột có thể làm tiêu hoá những thức ăn cứng và dai như rơm rạ, bo bo, các loại hạt.
- Ruột của loài ngựa cũng tương đối lớn và dài nên có cụm từ: “thẳng như ruột ngựa”.
- Ngựa ngủ ít hơn các loài vật khác và ngựa ngủ đứng thay vì nằm. Tại sao? Vì ngựa ngoài công việc kéo xe kéo cày, công việc chính của ngựa là phương tiện giao thông và hơn hết là....xông pha chiến trận. Vậy ngựa phải sẵn sàng mọi lúc mọi khi, khi nhiệm vụ cần đến.
- Ăn. - Ngựa có thể ăn suốt ngày Ngựa có thể vừa kéo xe vừa ăn.
- Tình đồng loại. Một con ngựa ốm, cả tàu không ăn cỏ. Điều nầy được chứng minh trên thực tế.
Ngựa trong thơ:
Chinh Phụ Ngâm. Người chinh phụ ở nhà vò võ trông chồng nơi biên cương và hình ảnh người chinh phu luôn luôn gắn liền người chiến sĩ và con chiến mã. Những câu như sau:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa. Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào. Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu. Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương.
Ôm yên gối trống đã chồn. Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ. Ba thước gươm, một cỗ nhung yên. -Xông pha gió bãi trăng ngàn, Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành.
Chàng ruổi ngựa dậm trường mây phủ. Thiếp dạo hài lối cũ rêu xanh. Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu cũng có một câu nói về ngựa: -Vân Tiên đầu đội kim khôi. Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô.Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu cũng có nhắc xa mã:-Mùi phú quí nhữ làng xa mã. Bã vinh hoa lừa gã công khanh.
Ngựa trong nhạc:
Ba bài nổi tiếng: 1. Dân ca “Lý Ngựa ô” do Nguyễn Hữu Ba ghi lại. 2. “Ngựa phi đường xa” của Lê Yên. 3. “Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang” của Ngọc Chánh và Phạm Duy. Một số nhiều nhạc phẩm khác do nhiều nhạc sĩ viết vẫn có hính bóng ngựa trong đó nhiều nhất phải nói là của Trịnh Công Sơn. Chẳng hạn như: Ngựa hồng đã mõi vó...trong “Xin mặt trời ngủ yên”, Ngày đầu thu nghe chân ngựa về...trong “Một cõi đi về”, Ngựa xa rồi, người vẫn ngồi, bụi vế với mây..trong “Phúc âm buồn”, Vó ngựa trên đồi hay dấu chim bay... trong “Xa dấu mặt trời” v.v...
Ban biên tập - Sưu tập
Tin mới nhất